Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Tich hợp hay cưỡng hôn ?!

 

 

          Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông trong tổng thể của Bộ GD- ĐT dự kiến sẽ tích hợp môn Lịch sử với môn Giáo dục công dân và An ninh quốc phòng thành một môn học mới là môn Công dân và Tổ quốc . Về mặt học thuật , về nguyên tắc tích hợp thì việc làm nầy có phù hợp và thích ứng với  thuật ngữ  tích hợp không ; đó là vấn đề tiên quyết và then chốt ( còn vấn đề di hại của việc nầy đã có nhiều người bàn ).

     Trước hết  cần phải hiểu cho đúng về thuật ngữ tích hợp .Tích hợp là một thuật ngữ mới được vận dụng ở nước ta . Nó xuất phát từ quy luật nhận thức cho rằng : Không có một đơn vị kiến thức nào đứng ở vị trí độc lập và không liên quan đến các kiến thức khác trên cùng bình diện . Hai chữ tích hợp  được dùng dưới nhiều dạng thức khác nhau : Quan điểm tích hợp , tinh thần tích hợp , phương pháp tích hợp , nội dung tích hợp , dạy học tích hợp . Riêng về nội dung tích hợp đòi hỏi các thành phần được tích hợp cùng nằm trên một bình diện . Bởi vì có cùng một bình diện mới có tính liên thông liên kết . Ví dụ dạy môn Văn cần phải có phương pháp tích hợp hai phân môn Tiếng Viết và Tập Làm Văn . Bởi vì trong văn có tiêng , trong tiếng có văn và cả văn lẫn tiếng đều là nguyên vật liệu để tập làm văn .
     Về mặt nội dung tích hợp thì các môn Lịch sử , An ninh quốc phòng và Giáo dục công dân không cùng chung bình diện , cũng chẳng họ hàng gì với nhau . Cho nên sát nhập ba bộ môn nầy thành một là một việc làm khiên cưỡng , phản khoa học và phản học thuật . Thuật ngữ tích hợp hoàn toàn xa lạ với việc sát nhập , lồng ghép , Trong giảng dạy bộ môn ,  hai chữ tích hợp được hiểu là phối hợp thành một thể thống nhất tích chứa bao điều có thể mà vẫn lưu giữ được tính đặc thù của phân môn . Hiểu một cách nôm na đơn giản là nhiều phân môn hòa trộn vào nhau , học cái nầy biết cái kia và ngược lại nhưng vẫn giữ được tính độc lập của từng phân môn ; nghĩa là hòa trộn mà không hòa tan .

      Ông Bộ trưởng bộ GD- ĐT cam kết trước Quốc Hội rằng : "Tuy tích hợp nhưng môn lịch sử không bị coi nhẹ và khẳng định được coi trọng hơn  so với chương trình hiện hành " . Ông nói như vậy đúng là ngụy biện . Một khi tên đã không còn là tên riêng nữa thì lấy gì bảo đảm sự tồn tại của môn lịch sử , nói chi đến xem trọng xem khinh . Ba môn Lịch sử , An ninh quốc phòng và Giáo Dục công dân được trộn lại để cho ra môn Công Dân và Tổ Quốc thì môn Lịch sử kể như đã bị khai tử rồi . Tích hợp như cách làm của ban soạn thảo chương trình là hình thức đánh tráo khái niệm tích hợp thành sát nhập lồng ghép .
    Bộ môn Lịch sử chỉ có thể tích hợp với môn Địa lý , Việt sử , Thế giới sử và những vấn đề có liên quan đến văn học , kinh tế , quân sự , tín ngưỡng , tổ chức hành chính ; và đặc biệt là tư tưởng triết học . Tư tưởng triết học chi phối toàn bộ các lãnh vực khác trong cùng một thời đại , một sự kiện lịch sử .
   Việc tích hợp môn Lịch sử với hai môn khác thành môn mới nằm trong ý đồ thực hiện bước cuối cùng trong tiến trình chính trị hóa . Từ lâu , giáo dục , thông tin và truyền thông  đã bị đánh đồng làm một để mở đường cho tiến trình trên . Và cũng đã từ lâu môn Việt sử hiện đại ( Lịch sử Đảng ) được cày sâu cuốc bẩm ; còn Việt sử thời trung đại và cổ đại thì bị hoang hóa . Tại sao chúng tôi nói bỏ môn Lịch sử là bước  cuối cùng trong tiến trình chính trị trị hóa ? Bởi vì Quốc sử , Quốc học chính là cái hồn , cái hạnh của một dân tộc . Một khi môn Lịch sử không còn tên gọi thì còn  biết đâu là nguồn cội . Cớ sự nầy gây ra do lỗi hệ thống .
   Có hai khuynh hướng cực đoan trong đường lối giáo dục trên thế giới :
  - Một là giáo dục con -người- nhân- loại vượt qua mọi giới hạn không gian , thời gian , hoàn cảnh ( như nền Giáo dục của Pháp trước thế chiến II )
 - Hai là giáo dục con -người- công- dân  trong một hoàn cảnh nhất định ; đào tạo theo một khuôn mẫu nhất định ; đáp ứng yêu cầu của một định chế nhất định ( như nền giáo dục của quốc xã thời Hitler hay nền giáo dục của Nga thời Sô Viết ).
  Hai khuynh hướng trên đều cực đoan và không tưởng . Khuynh hướng đầu phi thực tế ,phi dân tộc .
Khuynh hướng sau không chú trọng đến giáo dục con người đích thực có đầy đủ giá trị Chân Thiện Mỹ của con người muôn thuở mà chỉ chú trọng giáo dục con người công cụ .

   Nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa trước đây mang tính trung dung với triết lý giáo dục Nhân Bản -Dân Tộc - Khai Phóng . 
  - Giáo dục nhân bản là lấy con người làm cứu cảnh , đề cao giá trị thiêng liêng của con người , mỗi người và mọi người .
 - Giáo dục dân tộc là đề cao bản sắc dân tộc , bảo đảm sự trường tồn của dân tộc , sự phát triển điều hòa toàn diện của quốc gia .
 - Giáo dục khai phóng có nghĩa là tôn trọng tinh thần khoa học , hướng tới sự tiến bộ , đón nhận tinh hoa văn hóa của thế giới , góp phần phát triển sự tiến bộ , cảm thông và hợp tác quốc tế để tạo điều kiện thăng tiến cho đất nước.

    Nói đến dân tộc là nói đến quá trình phát triển và tiến hóa của dân tộc đó . Và nói đến quá trình phát triển tiến hóa là nói đến lịch sử nước nhà . Những bước đi của lịch sử kết thành những chặng đường phát triển qua các thời kỳ lịch sử . Tính độc lập của môn học nầy vừa hàm nghĩa tính đặc thù bộ môn vừa hàm nghĩa chối từ sự chi phối của bất kỳ xu thế chính trị nào .Thuật lại một sự kiện lịch sử không đơn thuần dựng lại quá khứ mà còn làm sống lại quá khứ trong kinh nghiệm mới mẻ của hiện tại . Đó chính  là ôn cố tri tân .

   "Ý mới rút từ kinh nghiệm cũ 
    Mai tàn lưu lại chút hương xưa "
"Chút hương xưa" ấy là tinh hoa hồn cốt của cả dân tộc , cũng là tư tưởng triết học của người xưa . Nhà sử học Phùng Hữu Lang cho rằng : ' Thuật lại lịch sử của một thời đại , của một dân tộc mà không đề cập đến triết học của thời đại ấy thì chẳng khác nào họa long bất điểm nhãn "  . Và nhà triết học Bacon cũng cho rằng : " Nghiên cứu lịch sử của một thời đại , của một dân tộc mà không đề cập đến triết lý thì khó mà hiểu được triệt để thời đại đó , dân tộc đó " . Xem ra không có triết thì không thể triệt vậy .
  Lịch sử của dân tộc ta đã
" Trải bốn ngàn năm dựng nước nhà 
Sông khoe hùng vĩ núi nguy nga ..." ( Vũ Hoàng Chương )
Trong khoảng thời gian dằng dặc đó trải qua một ngàn năm tranh đấu chống Bắc thuộc ; thời kỳ độc lập tự chủ khởi đầu từ nhà Ngô , nhà Đinh ; rồi hưng thịnh nhất vào thời Lý , Trần . Dưới triều vua Lý Nhân Tông không những giữ yên được bờ cõi , kiên cố phên giậu mà còn bình Chiêm và cả phạt Tống nữa .

      Ơi sử Việt là tranh đấu sử 
      Trước đến sau cầm cự nào ngơi 
      Tinh thần cách mạng sáng ngời 
      Bao người ngã lại bao người đứng lên
                               ( Trả ta sông núi - Vũ Hoàng Chương )

Nền giáo dục xưa không xử lý kỷ thuật , không xây dựng kế hoạch , không công nghệ hiện đại ...nhưng nó đã làm tròn nhiệm vụ của mình ; giữ được vai trò lịch sử của mình ròng rã mấy ngàn năm để nước Việt tồn tại đến tận ngày hôm nay ! 
Bỏ môn lịch sử đồng nghĩa với việc phủ nhận bao công trình huyết hãn của tiền nhân : Bắc đánh Tống , Nam bình Chiêm, diệt Mông Nguyên , giữ yên bờ cõi  . Có được những thành tựu to lớn như vậy là nhờ triết lý giáo dục trung , hiếu , tiết , nghĩa ...chứ không nhờ vào kỹ thuật , kế hoạch giáo dục .

     Để bênh vực việc tạo ra môn học mới , phó GS - TS Bùi Mạnh Hùng đưa ra ý kiến : " Việc tích hợp không chỉ nhắm đến việc nâng cao hiệu quả giáo dục mà còn giải quyết vấn đề kỹ thuật khi xây dựng kế hoạch dạy học " Thì ra ông nầy không phân biệt được đâu là gốc đâu là ngọn ! Đổi mới tư duy giáo dục , đường hướng giáo dục , triết lý giáo dục mới là cái gốc ; còn vấn đề kỹ thuật , kế hoạch kể cả hiệu quả giáo dục chỉ là cái ngọn . Thêm một ý kiến  khác bênh vực cho đề án nầy thì nói  rằng : " Các nước làm như thế và Việt Nam cũng nên làm theo " . Thật là nông cạn và ngớ ngẩn . Các nước tích hợp môn lịch sử với môn địa lý chứ đâu có kiểu tích hợp tùy tiện như dự kiến của các ông !


     Suy cho cùng thì môn Lịch sử không thể nào tích hợp với các môn An ninh quốc phòng , Giáo dục công dân để tạo thành môn học mới cho được . Vì nhiều lý do - trong đó có lý do phản khoa học , phản học thuật và sai nguyên tắc tích hợp là then chốt  . Ngoài ra , việc làm trái khoáy nầy sẽ gây di hại khó lường là việc  chuẩn cấp học ( standard learn ) ở bậc học phổ thông sẽ không thành công . Sau khi ra khỏi nhà trường phổ thông , học sinh sẽ không được trang bị đầy đủ vốn liếng hành trang vào đời  một khi đã bị mất căn bản kiến thức phổ thông trầm trọng . Nguy hiểm nhất là các em sẽ  thiếu tố chất " để cho con người xứng đáng là NGƯỜI " ( nhân chi sở dĩ vi nhân dã ) . Phó GS- TS Phạm Quốc Sử khẳng định : " Người không hiểu sử thì không khác gì con trâu . Con trâu thì ruộng nào cũng cày bởi nó không biết nguồn cội của mình " . Đúng vậy , con trâu chỉ biết cắm cúi cặm cụi kéo cày theo một đường rảnh có sẵn . Kiến thức lịch sử và địa lý vô cùng cần thiết cho con người - cho mỗi người và cho mọi người . Đặc biệt , giới luật gia , chính khách không thể không có hiểu biết về lịch sử và địa lý . Chính khách mà tù mù về kiến thức sử địa thì khi làm cán bộ lãnh đạo dẫn dắt quần chúng chẳng khác nào một người mù dẫn đường  một đoàn người mù .



   

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

ĐỌC LẠI BÀI HỊCH TƯỚNG SĨ CỦA TRẦN QUỐC TUẤN


   Bài Hịch tướng sĩ ( Dụ chư tỳ tướng hịch văn ) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết cách chúng ta hơn 700 năm mà nay đọc lại vẫn cứ âm vang giai điệu hào hùng và dâng trào tâm tư bi thiết .
   Trong cuộc chiến chống Mông Nguyên lần thứ hai , bài Hịch đã chuyển thế trận của quân Đại Việt từ thu quân , đầu hàng sang quyết chiến quyết thắng . Sức thuyết phục của bài hịch là ở chỗ yếu tố trữ tình bàng bạc , lan tỏa thấm đẩm cả bài văn chính luận . Từ trái tim đến trái tim , từ một tấm lòng đến vạn tấm lòng đã thắp sáng niềm tin , gọi hồn sông núi . Khởi đầu là tấm lòng của chủ tướng . Mục đích yêu cầu của bài hịch -  không dùng đao to búa lớn , lý lẽ suông tình , mệnh lệnh áp đặt hoặc nhân danh này nọ - mà chỉ dùng tình cảm để hiệu triệu , khuyến dụ , khuyên răn , cảnh tỉnh tướng sĩ đang  ham chơi mê ngủ .

    Tháng 12 năm Giáp thân ( 1254 ) hiệu Thiên Bảo năm thứ 6 , đời Trần Nhân Tông , đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng , Hưng Đạo Vương  thất thế thu quân chạy về Vạn Kiếp . Vua Nhân Tông thấy thế giặc quá mạnh cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng :
  -  " Thế giặc to như vậy mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát , nhà cửa bị phá hết ; hay là trẩm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ".
   Hưng Đạo Vương tâu :
-" Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức , nhưng tôn miếu xã tắc thì sao ? Nếu bệ hạ muốn hàng thì xin hãy chém đầu thần trước đã " .
Vua Nhân Tông nghe thế yên lòng , Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân và thảo ra DỤ CHƯ TỲ TƯỚNG HỊCH VĂN  để khuyên răn , đánh thức các tướng dưới quyền hãy từ bỏ lối sống cầu an , hưởng thụ và lo luyện tập võ nghệ , trau dồi binh pháp để chuẩn bị chiến tranh . Mặt khác vua cho họp các bô lão , mở hội nghị DIÊN HỒNG ,trưng cầu ý dân NÊN HÒA HAY NÊN CHIẾN .
  Lúc bấy giờ vua quan nhà Trần phải đương cự trước một tình thế vô cùng khó khăn .
   Khó khăn lớn nhất là phải chống lại một đạo quân bách chiến bách thắng , một đạo quân mà các sử gia tây phương phải kiêng dè :" Đi đến đâu thì cỏ chết đến đấy" . Nhưng đó chỉ là khó khăn ngoài biên ải , đáng kể nhất là khó khăn nội tại ngay trong triều đình .
   Trong triều đình vẫn có những quan lại vì lợi ích cá nhân mà thông đồng với giặc , thỏa hiệp với kẻ thù . Các quan lại khác thì vì hèn nhát phải khom lưng cúi đầu tiếp đãi ngụy sứ như quốc khách . Những cảnh tượng chướng tai gai mắt ngày ngày vẫn diễn ra trước sự phẫn nộ , căm tức của những con dân yêu nước .    Trong lúc đó ở bên ngoài thì bọn sứ giặc  " đi lại nghênh ngang ngoài đường , uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình , đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ " . Còn ở bên trong triều đình thì "tấu nhạc Thái Thường để đãi yến ngụy sứ ; làm tướng triều đình mà đứng hầu quân giặc "  .Thật oái oăm thay khi phải đem quốc lễ mà tiếp đón kẻ cướp nước .
  Càng đáng lo ngại hơn nữa là các tướng sĩ trong quân ngũ không ai quan tâm đến hiện tình dầu sôi lửa bỏng của đất nước .Họ bàng quan , thờ ơ trước những chuyện đau lòng đang diễn ra trong triều , ngoài dân chúng .
  Sau khi thắng cuộc trong trận chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất , họ ngủ quên trong chiến thắng ; họ đua nhau hưởng thụ theo sở thích cá nhân : "hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa , hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển , hoặc vui thú ruộng vườn hoặc quyến luyến vợ con ; hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước , hoặc ham săn bắn mà quên việc quân ; hoặc thích rượu ngon , hoặc mê tiếng hát " .
  Thái độ ham mê hưởng thụ xuất phát từ tâm lý chung của những người vừa mới trải qua nhiều thiếu thốn gian khổ .
  Còn thái độ quay lưng lại với thời cuộc với vận mạng của nước nhà là xuất phát từ vô minh , không thấy được mối tương quan , tương liên giữa cá nhân và xã hội , giữa gia đình và Tổ quốc .
   Một khi nước mất là mất tất cả !
   Quốc phá gia vong !
Chủ tướng Hưng Đạo Vương đem lòng đại lượng mà chỉ tỏ cho các tỳ tướng thấy được cái sai cùa mình : " Nếu có giặc đến thì cựa gà trống sao cho đâm thủng áo giáp quân thù , mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều , tấm thân ấy ngàn vàng khôn chuộc , vả lại vợ bìu con ríu nước nầy trăm sự nghĩ sao ? tiền của dù nhiều cũng không mua được đầu giặc , chó săn ấy thì địch sao cho nổi quân thù , chén rượu ngon không làm cho địch say chết ; tiếng hát hay không làm cho địch điếc tai . Lúc bấy giờ chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng hết ; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các người cũng nguy ; chẳng những là ta chịu nhục bấy giờ mà trăm năm về sau tiếng xấu hãy còn mãi mãi ; mà gia thanh cùa các người cũng chẳng khỏi mang tiếng nhơ. Đến lúc bấy giờ các người dẫu muốn vui vẻ , phỏng có được không ? "
  Hậu quả của lối sống hưởng thụ , thái độ vô cảm , bàng quan thờ ơ trước vận nước không những ảnh hưởng đến sự mất còn của quốc gia dân tộc mà còn gây di chứng cho nhiều thế hệ kế tiếp .
    Sau khi chỉ ra cho các tỳ tướng thấy được sai lầm trong hành vi cũng như trong nhận thức của họ ; chủ tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mới bộc bạch tâm tư tình cảm của mình :
   "Ta đây ngày thì quên ăn , đêm thì quên ngủ , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa , chỉ căm tức rằng chưa được xẻ thịt lột da của quân giặc , dẫu cho thân nầy phơi ngoài nội cỏ , xác nầy gói trong da ngựa , thì ta cũng đành lòng " ,
  Tâm tư, tình cảm của chủ tướng nói gọn lại cô đúc trong bốn chữ : " LO- ĐAU - BUỒN - CĂM ".
  Lo là lo cho vận nước trong cơn nguy khốn
  Đau là đau lòng vì thấy bọn tham quan hại dân bán nước
  Buồn là buồn cho dân tình lơ láo , quân ngũ buông tuồng
  Căm là căm tức thái độ hung hăng ngang ngược của giặc Tàu

 Lo , đau , buồn , căm - tình cảm nào cũng tuyệt đỉnh :
 Lo cho đến nổi quên ăn bỏ ngủ
  Đau như có ai cắt từng khúc ruột
 Buồn đến nổi nước mắt đầm đìa
Căm đến nổi muốn lột da xẻ thịt quân thù cho hả dạ

Tất cả những tình cảm ấy nung nấu thành một ý nguyện hy sinh cũng tuyệt đỉnh : Dẫu cho trăm thân phơi ngoài nội cỏ , nghìn xác gói trong da ngựa thì cũng cam lòng !

   Tại sao tình cảm nào cũng tuyệt đỉnh ?
  Lẽ dễ hiểu là không có nỗi nhục nào lớn hơn nỗi nhục quốc thể ( quốc sỉ ) .
Nỗi nhục bị xúc phạm đến thể diện quốc gia là nỗi nhục lớn nhất .
Ai đó xúc phạm đến danh dự thể diện của cá nhân hoặc dòng họ thì cũng đủ làm cho ta thấy nhục rồi . Huống chi ở đây kẻ thù xúc phạm đến cả tông miếu , triều đình  , xả tắc ...thì chỉ có những con người vô cảm vô sỉ mới không thấy nhục !

   Tấm lòng của chủ tướng đã bộc bạch can trường là thế , còn các tỳ tướng thì sao?

 Đây là câu hỏi vô cùng nghiêm khốc khiến người nghe phải giật mình . Bài hịch chuyển sang giọng nghiêm :
" Nay các ngươi nhìn tủi nhục mà không biết lo , trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn , làm tướng triều đình đứng hầu quân giặc mà không biết tức ; nghe nhạc Thái Thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm ! "  khiến cho các tỳ tướng  không thể không soi lại mình .
  Trong khi chủ tướng vừa lo vừa buồn vừa đau vừa căm thì các tỳ tướng lại điềm nhiên bình chân như vại là nghĩa làm sao . Đã thế mà còn đàn đúm hưởng thụ ăn chơi trụy lạc  . Huống chi tấm lòng của chủ tướng đối với quân sĩ như nghĩa anh em như tình cha con :
  Không có áo thì ta cho áo , không có ăn thì ta cho ăn , quan nhỏ thì ta thăng thưởng ,lương ít thì ta tăng cấp ; đi thủy thì ta cho thuyền , đi bộ thì ta cho ngựa ; lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết , lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười ..."

    Chủ tướng không nhân danh cấp trên để hạch hỏi  , cũng không  sỉ mắng chì chiết cấp dưới mà ai nấy cũng tự khắc cảm thấy mình mang tội bất hiếu , bất để , bất trung , bất tín , vô liêm ,  vô sỉ . Bất hiếu với tổ tông ,bất để trong tình huynh đệ chi binh , bất trung với vua , bất tín với xã tắc , vô liêm trong cách hành xử và vô sỉ vì không biết xấu hổ .Cảm được như vậy và hiểu ra như thế các tỳ tướng tự nhiên thấy mình có lỗi mà đem lòng thống hối muốn đái công chuộc tội. Sức thuyết phục của bài hịch ở chỗ không dùng lý lẽ quân pháp mà dùng tình cảm để mưu phạt tâm công . Hiệu quả to lớn của bài hịch nhờ vào cái tài bút pháp đã đành nhưng đặc biệt là nhờ cái tâm của chủ tướng . Nhà văn Ngô Tất Tố cho rằng :" Bài dụ Chư tỳ tướng hịch văn cho thấy không những Hưng Đạo Vương là võ tướng mà ông còn có tài học vấn , đọc nhiều sách và thông hiểu nhiều điển tích kim cổ " còn sử gia Trần Trọng Kim ghi lại trong Việt Nam sử lược : " Binh sĩ nghe lời hịch nức lòng , lấy mực xăm hai chữ Sát Thát lên cánh tay và hết lòng chiến đấu chống giặc " . Kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm phương bắc trong suốt chiều dài lịch sử cho thấy yếu tố tất thắng chính là nhờ khối đoàn kết nội tại trong cả nước . Nhưng để huy động được sự đoàn kết ấy cần có nhà lãnh đạo minh triết .

       Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được quốc tế công nhận là một danh tướng thế giới .
   Sau khi mất Ngài được nhân dân phong thánh và lập đền thờ ở khắp nơi .
   Ngài vừa có võ học vừa có văn tài , vừa rành binh pháp vừa giỏi dụng binh .        Nhưng cái đáng tôn sùng và nể trọng  là Ngài đã  biết gạt bỏ thù nhà để lo nợ nước ; biết lấy bản thân làm gương cho binh sĩ .
  Trung thực và công chính chính là bản chất của Ngài .
  Ngài được vua ban cho quyền tiền trảm hậu tấu nhưng chưa một lần dùng đến quyền nầy .
 Ngài được phong thánh không chỉ vì có công lớn đối với quốc gia xã tắc mà còn là vì  sự kỳ vĩ thập thành trong lập ngôn cũng như lập đức .