"Truyện Kiều còn tiếng ta còn , tiếng ta còn nước ta còn ". Đó là câu nói bất hủ của cụ Phạm Quỳnh khi đánh giá " Truyện Kiều " của cụ Nguyễn Du . Còn Tố Hữu thì cho rằng truyện Kiều là " Tiếng thơ ai động đất trời " ,là tiếng vọng của non nước từ nghìn thu xưa . Và nghìn năm sau truyện Kiều vẫn là "tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày ". Cả hai nhà đều coi truyện Kiều là cái hồn của non sông đất nước bởi vì nó đại diện cho vẻ đẹp trong sáng của tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ của người Việt nam . Điều đáng buồn là tiếng Việt ngày nay lâm vào tình trạng xô bồ bát nháo trong cách nói , cách viết của một số người Việt .
Tình trạng xô bồ bát nháo đó phơi bày đây đó cả trên báo đài , trên các bảng hiệu , biển quảng cáo , tên của các công ty ; thậm chí có mặt cả trong tác phẩm văn chương .
Ở các thành phố lớn ta thấy bảng hiệu , bảng quảng cáo người ta đua nhau ghi bằng tiếng nước ngoài , có khi chua thêm vài dòng tiếng Việt ở dưới . Tên công ty thì pha trộn nửa tây nửa ta như công ty Minh Đạt thì là MiDa, công ty Mỹ Tâm thì ghi là MyTa ,vv...Ngay trong ngôn ngữ nói của phát ngôn viên đài trung ương cũng có chỗ không chuẩn : Chẳng hạn , lẽ ra phải nói : "Chương trình hôm nay có những nội dung chính sau đây... "nhưng vì kiệm lời phát ngôn viên đó bỏ đi hai tiếng " sau đây " làm cho câu văn trở thành cụt ngủn bất thành câu. Trong văn viết có thể thay thế hai chữ sau đây bằng dấu hai chấm ( : ) nhưng trong văn nói thì không nên như vậy .
Không biết từ bao giờ và từ đâu người ta có thói quen tùy tiện ghép từ " Việt " đàng sau một từ . Ví dụ : Bếp Việt ,gạo Việt , văn chương Việt , tâm hồn Việt ,...Tại sao lại cứ phải " Việt " đang khi ta là người Việt nói về một vấn đề của ta ở chính trên đất Việt của ta ! Ai cũng hiểu từ " Việt " chính là Việt Nam . Những gì có trên đất nước Việt Nam mặc nhiên là " Việt Nam " rồi , hà cớ phải thêm chữ Việt . Nếu là một cộng đồng người Việt sinh sống tại hải ngoại , để phân biệt với các kiều bào khác , có thể gọi thế là đúng . Ví dụ như " phố Việt " , " phố Hoa " , " cơm Việt " , " cơm Tàu " , ...Nhưng gạo do dân ta trồng đương nhiên là gạo Việt Nam rồi , cần gì phải nói " gạo Việt " . Gọi hàng sản xuất trong nước là hàng nội địa để phân biệt với hàng ngoại nhập là đủ .
Ngôn ngữ của một nước thể hiện chủ quyền quốc gia của nước đó . Ta phải nói đúng , viết đúng tiếng nước ta . Người nước ngoài buộc phải học cách nói cách viết của ta . Ví dụ buộc họ phải nói " bưởi da xanh " chứ không vì sợ họ không nói được mà ta lại gọi là " Budaxa ". Ngược lại , ta cần phải viết đúng , phát âm đúng các tên gọi của nước ngoài chứ không nên phiên âm tùy tiện , dễ dãi . Điều này gây trở ngại vô cùng cho việc tra cứu tìm hiểu . Đến tận bây giờ sách giáo khoa vẫn còn phiên âm một cách ngô nghê . Ví dụ Alsace thì được phiên âm là An dat , Shakespeare thì phiên âm là Sếch-xpia, vv...
Ngoài ra tình trạng cải biên chữ viết của các bạn trẻ tràn lan trong các văn bản giao tiếp bất chấp luật chính tả và ngữ pháp . Ví dụ : "-»ckuc mn co m0t ngax nkuj max man nka-" có nghĩa là " chúc mọi người có một ngày nhiều may mắn nha " , vv..
Ngôn ngữ của một nước là cái hồn , cái hạnh của một nước , là chứng minh thư chứng nhận chủ quyền quốc gia của một dân tộc . Ngôn ngữ có trường tồn thì nền độc lập tự chủ mới trường tồn . " Tiếng ta còn , nước ta còn " , câu nói bất hủ của Phạm Quỳnh có giá trị như một " ghi nhớ " có tính ràng buộc .Tiếng ta tức là tiếng mẹ đẻ . Một đứa bé sinh ra đời bập bẹ tiếng mẹ đẻ ngay từ những tiếng nói đầu đời . Tâm hồn của đứa bé cũng được di dưỡng qua lời ru à ơi của mẹ . Trẻ con học tiếng trước khi học chữ . Chữ viết có thể thay đổi qua nhiều giai đoạn lịch sử nhưng tiếng nói thì không hề thay đổi . Thời nội thuộc phương Bắc ta dùng chữ Hán . Sau nầy , Hàn Thuyên phổ biến ra chữ Nôm . Rồi sau đó nữa là chữ quốc ngữ . Dù là thứ chữ gì thì tiếng nói của người Việt Nam , cái hồn của người Việt Nam vẫn là nguyên vẹn tinh khôi . Tiếng Việt còn hay mất là tùy thuộc vào lòng yêu tiếng Việt , yêu nước Việt . Yêu tiếng tức là yêu nước , và vì yêu nước mà phải giữ gìn sự trong sáng cho tiếng . Nói theo cách nói của Phạm Duy trong nhạc phẩm Tình ca :Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời ..., tiếng nước tôi tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi...
Vào thế kỷ thứ mười chín , nước Pháp đã một phen khốn đốn vì cuộc chiến tranh Pháp - Phổ . Nước Pháp thua trận đành phải cắt vùng đất giáp biên giới với Phổ giao cho Phổ . Chính quyền Phổ ra cáo thị vùng đất nầy từ đây không được dạy tiếng Pháp . Nhà văn Alphonse Daudet kể lại nỗi đau xót của một giáo viên dạy môn tiếng Pháp trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp .Buổi học cuối cùng ấy càng lúc càng thu ngắn thời gian lại trong niềm cảm xúc dâng trào của thầy lẫn trò .
Ở Việt Nam trong thời Pháp thuộc may mắn còn có trường Đông Kinh Nghĩa Thục dạy Quốc văn giáo khoa thư cho học trò . Quốc văn giáo khoa thư là một bộ sách giáo khoa đầu tiên soạn theo hướng tích hợp : vừa dạy chữ vừa dạy người , vừa dạy trí dục vừa dạy đức dục đan xen lồng ghép trong một bài học.
Khi ngôn ngữ của một nước bị lai căng pha tạp - không còn chính danh nữa thì cái mầm mất nước đã chực chờ nằm sẵn đâu đó rồi .Thuyết chính danh của Khổng Tử trước hết đặt vấn đề chính danh tự .Chính danh tự là một danh từ phải gọi đúng tên sự việc , phải diễn tả đầy đủ khái niệm về sự vật đó . Sự vật sự việc thế nào thì phải gọi cho đúng bằng một cái tên sát hợp với bản chất của sự vật sự việc đó . Danh có chính thì ngôn mới thuận . Ngôn có thuận thì sự việc mới thành tựu một cách minh nhiên sáng tỏ . Danh mà không chính thì lời nói sẽ lập lờ , lấp liếm , lơ tơ mơ ...Một xã hội mà vấn đề chính danh không được coi trọng thì cái mầm băng hoại đã đương nhiên tiềm ẩn .
Có một điều đáng lạc quan tin tưởng là tiếng ta vẫn còn . Mặc dù có hiện tượng xô bồ tùy tiện song bản chất tiếng Việt bao giờ cũng trong sáng . Nước Việt ta hiện nay có rất nhiều học hàm học vị giáo sư tiến sĩ mà tiếc thay ( ! ) lại không có được một hàn lâm viện để hiệu chỉnh kịp thời những sai trái tùy tiện trong cách dùng tiếng Việt .
.............................................................................................
Bổ sung ( trích từ comment của bạn Vương Đức Bình )
Con người chân chính nào cũng yêu tiếng mẹ đẻ của họ, đơn giản bởi vì đó
chính là tiếng lòng của họ, là tiếng nói của Mẹ, là thứ tiếng ta nghe
nhận được từ lòng yêu thương vô bờ của Mẹ ngay cả khi ta chưa biết nói,
khi ta còn khóc oe oe đòi bú, là thứ tiếng nói chảy vào lòng ta kèm theo
dòng sữa ngọt ngào từ vú mẹ. Ta cảm nhận những âm thanh đó bằng những
xúc cảm chân thật nhất trước khi ta biết đến cú pháp của ngôn ngữ. Tiếng
của Mẹ trở thành những câu chú thiêng liêng nuôi ta lớn lên. Cũng như
sức mạnh của những câu thần chú, đôi khi ta không cần hiểu, ta chỉ cần
cảm nhận. Có ai muốn phân tích một lời à ơi trong câu ru của mẹ không!?
Ta chỉ mới vài tháng tuổi, ta chỉ cần nghe "À ơi, con ơi con ngủ cho
say...." là ta đã yên lòng, cảm thấy bình yên trong vòng tay của Mẹ. Và
khi ta lớn lên, khi ta muốn thổ lộ tình yêu với người con gái mà lòng ta
tha thiết, và nếu ta là người Việt Nam, ta có muốn nói với bạn tình "I
love you..." hay không, hay ta sẽ nói "Anh yêu em"!? Ta sẽ thì thầm
điều đó với bạn tình bằng sự rung động tinh tế mà Mẹ đã truyền cho ta từ
dòng sữa của Mẹ, bằng chính ngôn ngữ của Mẹ, mặc cho ta có bằng tiến sĩ
hay đại loại bằng gì đó về tiếng Anh, tiếng Pháp,... Và nếu không may,
nếu bạn tình - cô bạn Việt Nam của ta - trả lời "I love you too!" thì
chắc ta phải nghi ngờ tính chân thật của mối tình của cô bạn dành cho
ta, rằng câu trả lời đó không xuất phát từ trái tim!
Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012
Hoa ngõ hạnh
Hoa ngõ hạnh ( * )
Trông hoa ngõ hạnh , dàu dàu
tả tơi gió sớm dãi dầu nắng hanh
đời đang vui cũng cam đành
ngủ yên giấc ngũ trên cành héo hon
Trông tôi , ngày tháng chon von
đam mê khắc khoải mỏi mòn tương lai
đêm nghe vẳng tiếng than dài
tiếc thương như tiếc lâu đài cựu vương !
Trung Vũ ( 1973)
( * ) Cảm tác " hoa ngỏ hạnh ", Bùi Giáng dịch Otello của William Shakespeare
Trông hoa ngõ hạnh , dàu dàu
tả tơi gió sớm dãi dầu nắng hanh
đời đang vui cũng cam đành
ngủ yên giấc ngũ trên cành héo hon
Trông tôi , ngày tháng chon von
đam mê khắc khoải mỏi mòn tương lai
đêm nghe vẳng tiếng than dài
tiếc thương như tiếc lâu đài cựu vương !
Trung Vũ ( 1973)
( * ) Cảm tác " hoa ngỏ hạnh ", Bùi Giáng dịch Otello của William Shakespeare
Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012
Giá trị tương đối của văn tự
Ngôn ngữ , văn tự là phương tiện truyền thông , chuyển tải , mô tả thực tại . Văn tự , ngôn ngữ không phải là thực tại .
Đức Phật dạy tất cả kinh giáo là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải mặt trăng . Chấp , vướng vào văn tự rồi cho đó là thực tại chẳng khác nào chăm chú nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà cho đó là mặt trăng . Ngôn ngữ văn tự chỉ có giá trị tương đối xét như là một giả danh chứ không phải thực danh . Bồ Tát Long Thọ đưa ra biện chứng : Không - giả danh - trung đạo .Ngài khởi đầu biện chứng bằng một vấn nạn : Nếu bảo nhất thiết không , ngôn ngữ cũng nằm trong nhất thiết thì lấy gì bảo rằng không ? Cần hiểu Không ở đây không phải là không đối đãi với có mà Không có nghĩa là không có tự tính , không có thực thể ; do nhân duyên sinh mà sinh , do nhân duyên diệt mà diệt ( thử hữu tất bĩ hữu , thử vô tất bĩ vô ...) . Để mô tả cái Không nầy buộc lòng phải dùng văn tự như một phương tiện thiện xảo . Long Thọ gọi đây là giả danh . Từ đó giáo pháp trung đạo ra đời , còn gọi là Trung quán luận .
Quá chấp vào văn tự sẽ không bao giờ thấy được thật nghĩa ( đãn hữu văn tự đô vô thật nghĩa ) .Chính Đức Phật đã từng tuyên thuyết :
Tìm ta qua âm thanh
Tìm ta qua hình ảnh
Là kẻ hành tà đạo
Không thể thấy Như Lai
Biện chúng pháp Không -giả danh - trung đạo của Long Thọ cho phép ta không loại trừ văn tự mà vẫn thấy được thật nghĩa ; không động đến chân tướng mà vẫn kiến lập các pháp .
Bất đoạn giả danh như kiến thật nghĩa
Bất động chân tướng kiến lập chư pháp
Đề cao văn tự xét như một thực tại tuyệt đối cũng như không tin vào các pháp của Phật đều là thái quá , bất cập , đưa đến chỗ kẹt vướng vào tướng . Trong kinh Kim Cang Phật thuyết : " Không nên kẹt vào pháp , không nên kẹt vào chẳng phải pháp . Các vị tì kheo nên biết pháp ta nói như chiếc bè qua sông . Pháp còn phải bỏ huống hồ gì không phải pháp . "
Muốn thể nghiệm được thực tại đạt đến cứu cánh giải thoát phải hạ thủ công phu thực tu, thực chứng . Đọc nhiều, hiểu nhiều , kiến giải nhiều giỏi lắm cũng chỉ là học giả chứ không hẳn là hành giả . Tam Tạng kinh điển được viết bằng nhiều loại ngôn ngữ khác nhau ( Sanskrit , Pali , Hán ) đều như ngón tay chỉ mặt trăng ( Nhất thiết tu đà na giáo như tiêu nguyệt chỉ ).Vậy đừng nên quá suy tôn văn tự ngôn ngữ một cách tuyệt đối hóa mà phải xem đó chỉ là một thứ giả danh .
Đức Phật dạy tất cả kinh giáo là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải mặt trăng . Chấp , vướng vào văn tự rồi cho đó là thực tại chẳng khác nào chăm chú nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà cho đó là mặt trăng . Ngôn ngữ văn tự chỉ có giá trị tương đối xét như là một giả danh chứ không phải thực danh . Bồ Tát Long Thọ đưa ra biện chứng : Không - giả danh - trung đạo .Ngài khởi đầu biện chứng bằng một vấn nạn : Nếu bảo nhất thiết không , ngôn ngữ cũng nằm trong nhất thiết thì lấy gì bảo rằng không ? Cần hiểu Không ở đây không phải là không đối đãi với có mà Không có nghĩa là không có tự tính , không có thực thể ; do nhân duyên sinh mà sinh , do nhân duyên diệt mà diệt ( thử hữu tất bĩ hữu , thử vô tất bĩ vô ...) . Để mô tả cái Không nầy buộc lòng phải dùng văn tự như một phương tiện thiện xảo . Long Thọ gọi đây là giả danh . Từ đó giáo pháp trung đạo ra đời , còn gọi là Trung quán luận .
Quá chấp vào văn tự sẽ không bao giờ thấy được thật nghĩa ( đãn hữu văn tự đô vô thật nghĩa ) .Chính Đức Phật đã từng tuyên thuyết :
Tìm ta qua âm thanh
Tìm ta qua hình ảnh
Là kẻ hành tà đạo
Không thể thấy Như Lai
Biện chúng pháp Không -giả danh - trung đạo của Long Thọ cho phép ta không loại trừ văn tự mà vẫn thấy được thật nghĩa ; không động đến chân tướng mà vẫn kiến lập các pháp .
Bất đoạn giả danh như kiến thật nghĩa
Bất động chân tướng kiến lập chư pháp
Đề cao văn tự xét như một thực tại tuyệt đối cũng như không tin vào các pháp của Phật đều là thái quá , bất cập , đưa đến chỗ kẹt vướng vào tướng . Trong kinh Kim Cang Phật thuyết : " Không nên kẹt vào pháp , không nên kẹt vào chẳng phải pháp . Các vị tì kheo nên biết pháp ta nói như chiếc bè qua sông . Pháp còn phải bỏ huống hồ gì không phải pháp . "
Muốn thể nghiệm được thực tại đạt đến cứu cánh giải thoát phải hạ thủ công phu thực tu, thực chứng . Đọc nhiều, hiểu nhiều , kiến giải nhiều giỏi lắm cũng chỉ là học giả chứ không hẳn là hành giả . Tam Tạng kinh điển được viết bằng nhiều loại ngôn ngữ khác nhau ( Sanskrit , Pali , Hán ) đều như ngón tay chỉ mặt trăng ( Nhất thiết tu đà na giáo như tiêu nguyệt chỉ ).Vậy đừng nên quá suy tôn văn tự ngôn ngữ một cách tuyệt đối hóa mà phải xem đó chỉ là một thứ giả danh .
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)