Thứ Tư, 15 tháng 11, 2017

NgườiTHẦY của tôi

Cô bất tai cô tai cô tai (*)
Tôi xin mạn phép Khổng Tử buông lời bắt chước :
Sư bất tai sư tai sư tai !?
 Thầy không ra Thầy mà cũng bảo là Thầy sao ?!
Đã là Thầy thì phải có tư cách mẫu mực mô phạm . Còn Thầy mà bảo học trò hãy nghe những gì thầy nói mà đừng làm theo những gì thầy làm thì hởi ôi chẳng phải là thầy . Hạnh phúc thay cho những ai có được một người Thầy đúng nghĩa , chính danh .
 Tôi may mắn có được cái hạnh phúc ấy .
Thầy tôi  là một giáo sư lão thành vừa dạy học vừa viết sách vừa thực sống theo những gì mình nói và  viết – suốt một đời làm nghề giáo :Thầy NGUYỄN ĐĂNG THỤC . Cách nay gần bốn mươi năm tôi vừa là học trò Thầy vừa phụ khảo ,phụ giảng cho Thầy . Vào mùa xuân năm 1976 tôi đến thăm thầy và không ngờ đó là chuyến thăm cuối cùng ; bởi từ đó đến nay tôi không còn gặp Thầy nữa .

Theo phong tục xưa , tôi đến thăm Thầy vào mùng ba Tết .
Nơi ở của Thầy đúng là cảnh lâm tuyền mà nếp thị  thành . Một ngôi nhà ngói cổ đơn sơ tọa lạc giữa một khu vườn rộng trồng cây ăn trái . Ngôi nhà có ba gian . Gian chính thờ Phật , hai gian bên thờ ông bà và   tiếp khách . Còn nơi làm việc của Thầy là một căn nhà riêng biệt nằm vuông góc với ngôi nhà . Thầy mời tôi ngồi . Thầy tiếp tôi như tiếp một đồng nghiệp  Tôi ngồi xếp chân ở một bên không trực diện với Thầy . Thầy tự tay châm trà , còn tôi đưa hai tay vin vào tách trà . Đó là cách giao tiếp với người lớn mà học sinh ngày đó được dạy như vậy . Sau vài câu chuyện thăm hỏi , Thầy đưa tôi sang tham quan căn nhà làm việc của Thầy . Căn nhà  có nhiều phòng , trong phòng có nhiều bàn viết , mỗi một bàn viết gánh một tác phẩm đang còn dỡ dang , kèm theo là mớ hồ sơ tài liệu nghiên cứu  .Những bài viết của Thầy thuộc nhiều đề tài song chung quy là TINH THẦN TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN  ( Nho -Phật -Lão quy về một nguồn ) .Tôn chỉ của thầy là đồng quy nhi thù đồ , nhất trí nhi bách lự . Nghiã là quy về chỗ giống nhau nhưng bằng nhiều đường khác nhau.Nhiều cách nghĩ khác nhau nhưng rốt cùng cũng nhất trí với nhau . Với tôn chỉ nầy thì không những chỉ có Nho Phật Lão đông quy mà sẽ có sự hòa đồng giũa triêt lý đông và tây , giữa khoa học và và đạo học . Bởi vì “ở phương đông có thánh nhân ra đời thì tâm ấy đồng , ý ấy đồng ; ở phương tây có thánh nhân ra đời thì tâm ấy đồng , ý ấy đồng “. Nếu đạt được tôn chỉ nầy thì sẽ không có hận thù ,không có chiến tranh , không còn khũng bố . Bấy giờ sẽ bốn biển một nhà , năm châu một chợ . Sự hòa đồng trên chỉ có thể thành tựu ở Việt nam . Vì hoàn cảnh địa lý và vị trí đắc địa của Việt Nam là GIAO ĐIỂM  cho đồng quy ,  hòa đồng mọi tư tưởng dị biệt . Việt nam là ngã tư của những nền văn minh trên thế giới  ( carefour de civilization). Theo Thầy thì hai chữ GIAO CHỈ , GIAO CHÂU là con đường gặp gỡ ( Trung - Ấn , Á –Âu )chứ không phải là hai ngón chân cái giao nhau như nhiều người lầm tưởng . Có lẽ vì vậy mà gần  đây các cường quốc không ngại ký những hiệp ước đối tác toàn diện với Việt nam .
 Hoài bảo cả một đời của Thầy là xây dựng một nền QUỐC HỌC  cho Việt nam , một nền văn  hóa thuần túy Việt Nam   mà tinh thần tam giáo đồng nguyên là cốt lõi của nền văn hóa đó . Quốc học được xem như một giáo trình bắt buộc giảng dạy ở các Đại học .Quốc học được coi như là cái gốc vững chắc để đón nhận những nhánh văn hóa ngoại lai cấy ghép vào . Nếu cái gốc không vững chắc thì sự cấy ghép sẽ không tựu thành , thậm chí có nguy cơ lai căng mất gốc .
 Giáo sư Heinrich Zimmer cho rằng nền giáo dục cũng như triết học Á đông là ở  NẾP SỐNG chứ không phải ở lý thuyết đầu môi . Điều quan trọng không phải là những gì thầy viết , điều quan trọng là những điêù Thầy thực sống với những gì đã viết   . Điều quan trọng không phải là ngôn thuyết mà là thân giáo . Không phải dùng lời thuyết giáo suông mà lấy bản thân làm gương mẫu ,  dùng tâm mình để chuyển tánh(transformation ). Trong con người của Thầy có ba dòng chảy : Khổng , Phật , Lão . Về Khổng giáo Thầy tổ chức gia đình thành một nếp sống nho phong , lễ giáo ; hành xử giao tiếp ngoài xã hội với một phong thái điềm đạm , khiêm cung , tín nghĩa , tiết độ . Về Phật giáo Thầy đã chọn đây là bến đỗ tâm linh ; về Lão giáo Thầy sống theo nếp nhàn của Lão Trang ; nhàn nhã tự nhiên trong cái đa đoan bận rộn – lấy cái làm mà không làm , lấy cái không làm mà làm ( dĩ vi nhi vô vi , dĩ vô vi nhi vô bất vi ) .
 Vừa giảng bải trên giảng đường , vừa đảm nhiệm chức trưởng khoa , vừa liên tục cho ra đời nhiều đầu sách , vừa nhận làm patron cho sinh viên cao học vv …nhưng lúc nào Thầy cũng ung dung tự tại . Chính nếp sống của Thấy , tư cách phong thái của thầy đã cảm hóa được biết bao kẻ hậu học . dạy về đạo , viết về đạo , sống trong đạo , không màng danh lợi  . Trong bốn mươi năm tuổi nghề Thầy đã cho ra đời trên năm mươi tác phẩm văn học , đạo học , triết học . Học trò của Thầy nhiều người đã thành danh .

   Những giáo sư giảng viên đại học ngày nay sống thực dụng , vụ lợi hơn là vì lý tưởng giáo dục .Thay vì dành thời giờ nghiên cứu và giảng dạy , họ dạy hết trường này qua trường khác theo chế độ thỉnh giảng .Giáo sư thì lạm phát mà công trình nghiên cứu thì ít oi . Nền giáo dục của ta nghèo học giả chỉ giàu bằng giả .Đó là chưa kể tệ nạn nhận phong bì của sinh viên , nhận lời mời ăn nhậu của sinh viên có nhu cầu xin điểm .Sinh viên biến người thầy thành công cụ để tiến thủ một cách bất chính . Không chỉ ở bậc đại học mà ngay đến bậc mầm non  mẫu giáo cũng lắm điều để bàn . Cô nuôi dạy trẻ yêu tiền hơn yêu trẻ - lại có cả bạo hành trẻ -Học sinh lớp một cũng bị cô giáo lùa về nhà để dạy thêm …Một nền giáo dục vụ lợi kiểu nầy thì mong gì tương lai của các thế hệ mai sau .Trong hiện  tại , nghĩa ân sư , tình thầy trò bị xói mòn , mai một . Câu nói “ dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo “ trở nên sáo mòn vô nghĩa .Thầy vô đạo thì trò còn gì để mà trọng , còn ai để mà tôn kính ! Chẳng trách học trò ngày nay thất lễ với thầy . Nghề nào cũng phải có đạo của nghề đó . Cái đạo của nghề dạy học là lòng yêu thương học sinh . Không những yêu thương mà còn phải biết trân quý mầm non của đất nước . Nhà vi trùng học Yersin có một câu nói rất hay về đạo làm thầy :  Ta đến với một đứa trẻ vì một lòng thương và một lòng kính . Thương vì hiện tại của em và kính vì tương lai của mà em có thể có
  Làm thầy mà không biết yêu thương học trò không biết nâng niu trân trọng tương lai của học trò , không mô phạm chuẩn mực thì đâu phải là thầy !
 Sư bất tai sư tai sư tai ?!

  Ngày xuân năm nào đi thăm thầy cũ đã gợi lại trong tôi nỗi niềm trắc ẩn trước thực trạng của giáo dục hiện nay . Biết bao người đã mong chờ và tự hỏi  không biết trong lần cải cách tới có thay đổi được gì không ?Riêng tôi , tôi may mắn có được một  người Thầy đúng nghĩa , chính danh.

 Thầy tôi đã giảng về đạo , viết về đạo và thực sống trong đạo  với những gì Thầy nói Thầy viết trong suốt cuộc đời làm nghề dạy học !


(*) Cô là cái cốc uống rượu có góc vuông . Về sau cốc uống rượu không có góc vuông nữa vẫn được gọi là cô .
Trong thuyết chính danh Khổng Tử than : Cốc không là cốc, cũng gọi cốc sao, cũng gọi cốc sao ?!

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

 
 Nguyễn Công Trứ ( 1778- 1858) , trong bài KẺ SĨ đã vạch ra một chương trình hành động cho cuộc đời của mình gồm 3 giai đoạn : Vị đạt , hiển đạt và nhàn dật . Vị đạt còn có tên là vị ngộ , tức là thời kỳ kẻ sĩ sống trong tối tăm , ẩn kín nơi thôn dã chưa được ai biết tới , lo dùi mài kinh sử . Hiển đạt là giai đoạn gặp thời đem sở học ra ứng dụng để giúp đời giúp nước . Giai đoạn cuối là NHÀN DẬT : tự do , thích thảng , nhàn du , phóng dật !Nói nôm na là : nhỏ học , lớn hành , già ở không . Triết lý hành động của NCT  ở thời kỳ nào , giai đoạn nào cũng có ý thức thường trực về mọi hoạt động của mình !

    Ý THỨC TÂM NIỆM CỦA KẺ SĨ THỜI VỊ ĐẠT ;  Lúc còn nhỏ học hành ,rèn luyện , trau dồi tài năng , đức độ , chuẩn bị ứng thí ở các kỳ thi .Nếu sau khi đỗ đạt mà chưa có cơ hội tham chính thì vẫn ẩn mình nơi thôn dã :
" Lúc hội ngộ hối tàng nơi bồng tất "
Ôm một bụng chữ , ôm cái tài kinh bang tế thế , ôm cái học thông kim bác cổ mà phải làm những việc tầm thường ( như câu cá , cày ruộng ,...) để mưu sinh độ nhật thì kẻ sĩ có buồn chăng ? Không những không buồn mà còn " hiêu hiêu nhiên điếu vị canh sằn " vì " mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ".

   Thời vị đạt có thể kéo dài đến tuổi trung niên ; nhưng không phải vì thế mà cầu an thất chí . Không làm được gì ích quốc lợi dân thì ít ra cũng làm tấm gương hiếu nghị cho làng xã noi theo :
 " Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị "
" Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường "
 Đạo lập thân là con đường làm người tử tế , hiền lương . Không một con đường nào có thể thay thế " tam cương ngũ thường "
  Ý thức hành động tích cực hơn nữa là phản biện xã hội trước những điều chướng tai gai mắt . Kẻ sĩ không phải chỉ biết tu hạnh , xử kỷ cho bản thân mà còn phải biết lo bảo tồn nếp phong hóa bằng lý lẽ , nghị luận , biết khen chê , biết phân minh phải trái !
" Phù thế giáo một vài câu thanh nghị "
 Kẻ sĩ ý thức rất rõ về vai trò cán bộ nho giáo là truyền bá chánh đạo , đồng thời be bờ , ngăn chặn bá đạo , tà giáo , bạo quyền , tà thuyết ,...
" Cầm chính đạo để tịch tà cự bí "
" Hồi cuồng phong nhi chướng bách xuyên "
  Về phương diện tỉnh thức trong cuộc sống và ý thức hành động tuổi trẻ ngày xưa có hoài bão , có lý tưởng rất lớn ! Tuổi trẻ ngày nay thường sống đốt giai đoạn , sống vội vàng trong vô thức tập thể ; chưa đủ già mà đã lo hưởng lạc , hưởng nhàn , ...quay lưng với nhân tâm thế đạo , thờ ơ trước vận mệnh nước nhà !

Ý THỨC , TÂM NIỆM CỦA KẺ SĨ THỜI HIỂN ĐẠT :Đây là thời kỳ nhập thế hành đạo , giai đoạn ứng dụng , thực hành sở học , sở kiến , sở tri vào cuộc nhân sinh . Có 2 con đường lập thân , xuât chính : Một là đỗ đạt rồi được tuyển cử làm quan, hai là nhờ thanh khí tương tầm , nhờ thiên duyên hạnh ngộ , minh chủ biết đến và tin dùng . Dù nhập thế bằng con đường nào , kẻ sĩ cũng đem hết tài năng , học thức tồn trữ sở đắc từ buổi thư sinh để ứng dụng thực hành !
" Rồng mây khi gặp hội ưa duyên "
" Đem quách cả sở tồn làm sở dụng "
  Nếu là quan văn sẽ là rường cột của triều đình . Nếu đất nước có giặc giả , có ngoại bang xâm lược thì kẻ sĩ thành võ quan, xuất quân, thân chinh dẹp giặc !
  " Trong lăng miếu ra tài lương đống "
" Ngoài biên thùy rạch mũi can tương "

   Đối với kẻ sĩ chân chính vấn đề không phải quan văn hay võ tướng , vấn đề không phải là chức tước , quân hàm , mà là tư cách , tài năng và thái độ phục vụ , cống hiến .
Điều làm cho kẻ sĩ lưu danh sử sách chính là sĩ hạnh , sĩ khí chứ chẳng phải công hầu khanh tướng !
" Làm sao cho bách thế lưu phương "
"Trước là sĩ ,sau là khanh tướng "

 Nếu so sánh giữa cán bộ nho gia xưa và cán bộ cách mạng ngày nay thì khác nhau trời vực . Nho học và đặc biệt là Tống Nho với Vương Dương Minh thì lấy " tri hành hợp nhất "  làm tiêu chí hàng đầu ! Quy trình lập thân của kẻ sĩ là học hành , đỗ đạt rồi mới làm quan ; còn cán bộ ngày nay rất nhiều trường hợp làm quan rồi mới học hành ( và đỗ đạt ). Thời xưa người ta chuộng kẻ sĩ dựa vào công tích của họ cống hiến cho đất nước cho dân tộc ; khác với  ngày nay người ta chuộng quan chức chỉ dựa vào phẩm trật và thành tích của họ ( qua báo cáo ) !
Ý THỨC , TÂM NIỆM CỦA KẺ SĨ THỜI NHÀN DẬT ( HOÀN DANH ) : Giai đoạn nầy là thời kỳ quay về cuộc sống nhàn du , nghỉ ngơi để bảo toàn khí tiết . Thái độ nầy xuất phát từ ý thức " công thành thân thoái "
  Nếu đã công thành danh toại thì có nghĩa là đã trả xong cái nợ sách đèn ,nợ công danh , nợ hiếu trung ,...
 Nợ trả xong thì xem như " Sĩ đã hoàn danh "
Đã hoàn danh rồi thì nên lui về vui thú điền viên , tự do thích thảng . Đó là thái độ của hiền triết !
  Khác với ngày nay nhiều cán bộ đã đến tuổi hưu rồi vẫn tìm cách ký hợp đồng để "hiển đạt " tiếp !

   Cuộc đời của kẻ sĩ ngày xưa theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ thật nhẹ nhàng , đơn giản : Nhỏ học , lớn hành , già nghỉ ngơi ! Đó là triết lý căn bản về hành động . Đó là lối sống tỉnh thức .Trong hệ ý thức đó thì ý thức về sự hữu dụng , tác dụng đối với nhân quần xã hội , đối với quốc gia xã tắc được đặt lên trên tất cả  !


     Tóm lại , nói đến triết lý hành động là nói đến ý thức tự ý thức ! Phải ý thức cho rõ về mình trước khi tìm hiểu thế giới chung quanh mình .Socrate từng bảo :" Anh phải tự hiểu chính anh"  (Connais-toi toi-même).
  Mọi hành vi sai trái đều xuất phát từ sự vô minh của chủ thể hành động !


Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOÃNG CỦA GIÁO DỤC HIỆN NAY


     Đường hướng giáo dục của một quốc gia chính là tư tưởng triết lý giáo dục của quốc gia đó .Tư tưởng triết lý vế giáo dục chứ chẳng phải là tư tưởng triết lý xã hội học . Chính tư tưởng triết lý đó chi phối toàn bộ hệ thống giáo dục , hoạt động giáo dục : hoạch định chính sách , thiết chế kỹ thuật , tổ chức học chánh , giáo vụ , học vụ , thí vụ vv...
    Giáo dục VN cũng như các quốc gia theo chủ nghĩa XH đặt trên nền tảng tư tưởng triết lý xã hội học của Emil Durkheim( 1856-1917). Chủ trương của nhà xã hội học nầy tách rời giáo dục ra khỏi con người , ra khỏi tính cách đặc thù , ý thức cá nhân của mỗi con người . Chủ trương nầy chú trọng đến vấn đề xã hội và không hề quan tâm gì đến vấn đề con người - đang khi yếu tố con người là yếu tố cấu thành xã hội .Tư tưởng của Durkheim xem ra rất hợp khẩu vị với học thuyết xã hội chủ nghĩa ( Socialisme).Đường hướng giáo dục nầy xem giáo dục chỉ là một sự kiện xã hội ( fait social) . Đặc điểm của đường hướng giáo dục nầy là thích khuôn mẫu , uốn nắn , đào luyện , cốt làm sao xã hội hóa được thế hệ trẻ . Từ đó diễn ra một cuộc cưỡng chế quy mô lớn giữa " người lớn " và " trẻ con " , giữa thế hệ " trưởng thành " và " chưa trưởng thành ". Người lớn - thế hệ trưởng thành - trực tiếp cưỡng chế là giáo sư, giáo viên , gián tiếp là phụ huynh , quan chức lãnh đạo GD, ban tuyên giáo trung ương ,...
Mục tiêu GD hiện nay là mục tiêu đào tạo , chính xác là đào luyện những công cụ đáp ứng những yêu cầu xã hội , chính trị .Đường hướng GD kiểu nầy theo triết gia Krishnamurti chỉ đào tạo ra " một mẫu người khuôn khổ ,thích an toàn , ham cạnh tranh ,mê giải trí ,giết thời gian bằng cách sống máy móc và ít suy nghĩ chừng nào hay chừng ấy " .Những mẫu người nầy thuộc làu làu giáo điều , đức lý nhưng lại không chí tâm thành ý trong mọi hành vi đạo đức .
Hướng GD theo đường lối nầy vẫn cắm cúi đi theo đường cày vạch sẵn . Những cuộc cải cách , chỉnh lý , đổi mới chỉ nhắm vào kỹ thuật GD mà vẫn giữ nguyên đường hướng GD . Có sự khác biệt không nhỏ giữa đường hướng GD và kỹ thuật GD.
Đường hướng GD là tư tưởng , là tinh thần được cụ thể hóa trong mọi hoạt động GD nhằm đào tạo con người ; còn kỹ thuật GD là cách thức tổ chức học chánh , sử dụng các phương tiện GD . Sự thay đổi xoành xoạch sách GK, phân phối chương trình , lề lối thi cử ,...chỉ gây thêm tốn kém cho phụ huynh , cho ngân sách .Tốn kém tiền nong là một lẽ ,điều đáng quan ngại là nếu cứ mãi lầm đường lạc lối thì hậu quả thật khôn lường !
Chừng nào còn xem GD là sự kiện xã hội chừng ấy GD chẳng thể nào là quốc sách . Bao lâu còn coi trọng khuôn mẫu ( dạy mẫu , học mẫu , thi mẫu , chấm mẫu ,...) bấy lâu tính sáng tạo , độc lập của trẻ còn bị thui chột , bóp chết . Phải tiêu trừ thể chế GD mang tính cưỡng chế , áp đặt giữa " người lớn " và " trẻ nhỏ ". Lấy gì bảo đảm rằng hể là người lớn thì mặc nhiên trưởng thành và hể là trẻ con là chưa trưởng thành ? Có những điều mà trẻ nít 3 tuổi đã biết còn ông già 80 làm mãi chưa xong ( Ô Sào: tam tuế tiểu nhi giai đương tri , bát thập lão ông tạo bất đáo ) . Nếu cứ nhồi nhét vào đầu trẻ thơ những suy nghĩ giáo điều của người lớn thì sản phẩm của GD sẽ là "những đứa trẻ cụ non và những người già ấu trỉ ". Vả lại GD không chỉ là nhu cầu của một lứa tuổi , của một tầng lớp ,..mà là của mọi người , của mỗi người . Nhiệm vụ của người thầy giống như nhiệm vụ của một bà mụ đở đẻ - giúp sản phụ sinh đẻ chứ không đẻ thay cho sản phụ !
Giáo dục trước hết là đào tạo con người đúng với ý nghĩa đích thực của nó . Trước hết phải là con người đúng nghĩa rồi mới tính đến nghề nghiệp , chức danh ,...Một nền GD chỉ nhắm đến đào tạo chuyên viên - xét như công cụ phục vụ xã hội - là nền GD phi nhân tính .Sản phẩm của nền GD phi nhân tính là những bác sĩ giết người hợp pháp , những luật sư bảo vệ cho thân chủ phi đạo đức , những chính khách xôi thịt , những ngụy trí thức , những thanh niên cầu an, ham ganh đua ,mê giải trí , lười suy nghĩ , ham ăn chơi ,...
Như trên đã nói , đường hướng GD như hiện nay quyết định mọi hoạt động GD . Một trong các hoạt động bề nổi là việc học hành thi cử . Việc học nhiều môn mà chỉ thi có 3 môn , việc lấy kết quả kỳ thi phổ thông làm cơ sở tuyển sinh vào Đại học ,vv...đều bị chi phối bởi đường hướng GD hiện hành . ĐH Sư phạm là cái lò đào tạo ra những con người làm GD , , những nhà GD , thế mà điểm chuẩn ở mức thấp nhất : 3 điểm/ môn ( điểm kém ).Trong khi đó các trường công an , quân đội thì điểm chuẩn cao ngất : 10điểm /môn ( điểm tối ưu ) . Thật là trớ trêu khi ĐH sư phạm xả cổng , cửa rộng mở mà chẳng mấy em muốn vào . Đó là một nghịch lý bi hài mà cũng là chỉ dấu của một sự khủng hoảng trầm trọng trong GD .
Giáo dục ở miền Nam trước 75 rất coi trọng việc chuẩn cấp học ( Standard class). Ở cấp trung học phổ thông phải trải qua 3 kỳ thi (*) :Trung học đệ nhất cấp , tú tài 1, tú tài 2 . Tú tài 2 còn gọi là tú tài toàn phần . Hai chữ toàn phần nói lên tính đủ chuẩn của văn bằng : học bao nhiêu môn thì thi đủ bấy nhiêu môn ! Nhờ có bảo chứng về giá trị văn bằng nên hs sau khi đậu tú tài 2 có quyền ghi danh học ĐH mà không qua thi tuyển . Chỉ riêng đối với một số ít trường do nhà nước tổ chức để đào tạo chuyên viên thì các cô cậu tú nào muốn học thì phải chịu trải qua một cuộc thi tuyển nghiêm ngặt .Trường ĐH sư phạm là một trong số trường thi nghiêm ngặt đó ! Chen chân vào các loại hình trường nầy thật không dễ dàng chút nào ! Sinh viên ĐH sư phạm thời đó được miễn học phí , có học bỗng , khi ra trường được nhà nước bổ nhiệm ngay - đặc biệt các người đỗ cao sẽ được ưu tiên chọn nhiệm sở .Với mãnh bằng tú tài toàn nếu không đủ điều kiện vào ĐH thì các cô cậu tú cũng đã có đủ vốn liếng hành trang vào đời - vì đã đủ những kiến thức phổ thông và đã đủ những tri thức đức lý để làm người tử tế , sống cuộc đời hiền lương !
Việc chỉ thi 3 môn mà lấy kết quả kỳ thi làm chuẩn để tuyển sinh ĐH chứng tỏ bô GD chẳng biết quan tâm đến vấn đề " chuẩn cấp học " là gì !
   Nói tóm lại , nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng GD hiện nay là do đường hướng GD quá chú trọng đến vấn đề xã hội mà không đếm xỉa gì đến vấn đề con người . Một nền GD phi nhân tính tách GD ra khỏi con người , ra khỏi cá tính đặc thù , ý thức cá nhân ,...dần dà triệt tiêu ý nghĩa của đời sống .Nói như Nietzche : " Ý nghĩa của đời sống không ở trong sự duy trì hay sự tiến bộ của những chế độ nhưng lại ở trong các cá nhân "
Chính ý nghĩa đời sống trong các cá nhân đã góp phần làm nên điện mạo của văn minh , văn hóa !
(*) Sau nầy vì tình hình chiến sự nên năm 1967 chính phủ đã bỏ kỳ thi TH đệ nhất cấp , ít năm sau bỏ luôn kỳ thi tú tàì1.

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2017

KHÚC CA TỪ NHỮNG NGƯỜI LƯƠNG THIỆN

       
      Phim " cuộc sống của những người khác " dựa vào một câu chuyện có thật ở Cọng hòa dân chủ Đức vào  năm 1984 - trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ 5 năm 7 tháng .  Truyện xảy ra trong giới văn nghệ sĩ .nội dung phim xoay quanh tấm bi kịch giữa một bên là khát vọng tự do sáng tác , đam mê nghệ thuật  với một bên là bộ máy kềm kẹp , theo dõi , giám sát của nhà nước mà thực thi là hệ thống an ninh mật vụ ...Giới văn nghệ sĩ thường trực đối diện với một nỗi sợ hãi giăng mắc mọi nơi . Nỗi sợ hãi khiến họ trở nên tự kỷ , trầm cảm dẫn đến hàng loạt người tự tử . Có nhiều người phải đánh đổi thân xác để được làm nghệ thuật . Nhà cầm quyền lúc đó gọi tên hiện tượng nầy bằng một cụm từ hoa mỹ " CHẾT TỰ NHIÊN " . Và họ cho rằng chết tự nhiên để cho đất nước được an toàn ,trật tự chính trị được ổn định . Sau đây là phần lược thuật :
   
 Georg Dreyman là nhà văn ,nhà thơ đồng thời là nhà đạo diễn tài hoa và nổi tiếng dưới thời Cộng hòa dân chủ Đức ( Đông Đức ) . Vợ của ông là Seiland , một ngôi sao điện ảnh nổi tiếng không kém chồng mình . Một người bạn ( cánh tả ) cùng với người hàng xóm của ông trốn sang Tây Đức ; thế là ông bị an ninh thẩm vấn . Người thẩm vấn ông là trùm nghe lén và rất giỏi về nghiệp vụ hỏi cung nhưng không moi được chứng cứ gì bèn thả ông về và vẫn tiếp tục theo dõi đồng thời đình chỉ mọi hoạt động văn hóa của ông . Vợ ông cũng bị cấm diễn . An ninh vẫn thừa nhận rằng "gã nghệ sĩ nầy có cách che giấu rất kỹ " .
  Bên an ninh giao cho trùm nghe lén Wiester - có bí danh là XX/7 dẫn một toán kỷ sư đến nhà Dreyman mở khóa vào nhà để lắp đặt thiết bị nghe lén ... Vợ chồng  Dreyman hoàn toàn không hay biết việc nầy , lại đinh ninh rằng an ninh không còn để mắt đến họ nữa . Dreyman không bị nỗi sợ hãi đeo bám nữa nên tiếp tục sáng tác . Để giúp đồng nghiệp nhận được sự chia sẻ của thế giới hầu có thể chận đứng được sự " chết tự nhiên "  vì bị khủng hoảng tinh thần , Dreyman làm một thiên phóng sự thống kê số lượng văn nghệ sĩ tự tử để gởi sang Tây Đức  . Người bạn và người hàng xóm lúc trước sang Tây Đức nay đã lén trở về và bí mật  gặp gỡ  Dreyman để cùng thực hiện kế hoạch nầy . Họ tặng ông chiếc máy chữ hiện đại nhất mà ở Đông Đức chưa đủ trình độ sản xuất .
Hemp- bộ trưởng bộ văn hóa bắt ép Sieland  lên xe rồi giở trò đồi bại .Ông ta hứa nếu bà chịu hầu hạ ông ta thì sẽ được tiếp tục diễn và ông Dreyman chồng bà sẽ được bỏ lệnh cấm lưu hành tác phẩm . .Phần vì sự nghiệp của chồng , phần vì đam mê nghệ thuật nên Sieland nhận lời .Trong khi Dreyman miệt mài , cặm cụi trước tác thì hàng đêm vợ ông lại đi hẹn hò với bộ trưởng .Không có vợ ở nhà và biết vợ vì mình mà phải hẹn hò với bộ trưởng  ,Dreyman mất dần cảm hứng sáng tác , buộc lòng ông phải van xin vợ dừng ngay việc nầy. Và sự " trở về " của Sieland với chồng đã có công lớn của trùm Wiester  .Và họ lại tiếp tục quấn quit nhau trong ngôi nhà hạnh phúc . 
 Đặc vụ Wiester cùng một phụ tá kỹ thuật thay phiên nhau trực ở phòng máy để theo dõi mọi động tịnh của vợ chồng Dreyman , kể cả việc làm tình . Dần dần  ,Wiester bỗng cảm nhận rồi đâm ra ngưỡng mộ ,nể phục cuộc sống chan hòa yêu thương , giàu lý tưởng và lương thiện của đôi vợ chồng nghệ sĩ nầy .Một hôm nghe tin Jerska -một họa sĩ tài hoa bị cấm vẽ đã 5 năm  -  tự tử ;Dreyman dừng viết ,ngồi vào đàn Piano chơi bản Sonat ...; rồi ông lẩm bẩm : " Nếu nghe được khúc đàn nầy ,Jerska đã không tự tử " . Điều nầy khiến cho trùm Wiester cảm động về tính nhân văn của người nghệ sĩ mà ông đang theo dõi .Dreyman thường giấu chiếc máy chữ dưới ngạch cửa giữa phòng ngủ và phòng khách , cả vợ cũng không biết - bà chỉ tình cờ bắt gặp lúc ông đang giấu !

  Tác phẩm đã hoàn thành , người bạn và người hàng xóm của ông từ Tây Đức về nhận "hàng".Không bao lâu The Mirro- một tờ báo của tư bản - cho đăng tải thiên phóng sự của Dreyman . Những thông tin từ lâu bị bưng bít bên trong bức màn sắt bị rò rỉ ra ngoài .Nhà cầm quyền Đông Đức hoảng loạn  , nhốn nháo cho người điều tra làm rõ . Và họ truy lùng cái máy chữ .Một mặt cho bắt giam Sieland  để điều tra ;mặt khác họ khám xét lục tung nhà của Dreyman nhưng thất bại . Viên đại tá an ninh cầu cứu mật vụ Wiester thẩm vấn Sieland ; và bà nầy lại khai ra chỗ cất giấu cái máy chữ . Wiester tức tốc đến nhà Dreyman lấy chiếc máy chữ đem giấu chỗ khác . Toán an ninh tràn đến nhà Dreyman ...Sieland về đến nhà ; trong phút giây ân hận , tuyệt vọng ,bà chạy ra đường ,lao vào xe tải tự vẫn .. Trong lúc hấp hối bà được Wiester đỡ lên và nói nhỏ vào tai : " Bà yên tâm , tôi đã chuyển chiếc máy chữ đi rồi " . 
 Không tìm ra vật chứng , kế hoạch nghe lén của đặc vụ Wiester - bí danh XX7- chấm dứt .và nhận nhiệm vụ khưi thư cho người khác đọc trộm .
  Ngày 9/11/1989 bức tường Bá Linh sụp đổ ; dân Đông Đức ùa chạy sang Tây Đức .Cộng hòa dân chủ Đức được sáp nhập vào Cộng hòa Liên bang Đức .Chính phủ Liên Bang chia sẻ ,giúp đở ,chăm sóc tận tình người dân Đông Đức . Dreyman được tự do muốn viết gì thì viết . Ông được dân chúng tung hô vì có công buông gió để góp phần tạo cơn bão lớn làm ngã đổ bức tường ô nhục !. Chân dung của ông được được trưng bày bằng pano khắp nơi .
 Đặc vụ XX/7 chuyển sang làm nghề đưa thư .Một hôm Dreyman phát hiện dây nhợ lòng thòng trên tường mới ngộ ra là mình từ lâu đã bị nghe lén . Ông truy tìm người đã nhanh tay giấu đi chiếc máy chữ . Cuối cùng ông cũng đã nhận diện được ân nhân cứu mạng chính là Wiester , đặc vụ XX7.Để báo đáp cho ân nhân đã giúp đỡ âm thầm , Dreyman cũng âm thầm báo đáp bằng cách viết tặng cho người đưa thư Wiester tác phẩm " KHÚC CA TỪ NHỮNG NGƯỜI LƯƠNG THIỆN " . Và ở trang bìa ,ông kính cẩn đề câu :" Đến XX7 với lòng biết ơn " .
   Sau đây là vài cảm nhận mang tính thời sự của người xem phim : 
   
 -Về bản chất của chế độ độc tài thì hầu hết các nhà độc tài đều áp dụng học thuyết của Machiavel:"  ĐỐI VỚI DÂN KHÔNG CẦN HỌ THƯƠNG MÀ PHẢI LÀM HỌ SỢ " . Để giữ vững quyền lực họ gieo rắc sự sợ hãi .Vợ của họa sĩ Jerska,vừa khóc vừa kể : " Sâu thẳm trong bức tranh của anh ấy là sự sợ hãi ". Dưới chế độ độc tài sự tồn tại trở nên vô nghĩa vì sống mà không có quyền con người , không được nêu ý kiến , không được phép viết những gì mình muốn. "Viết về cuộc sống là kiệt tác chỉ là hy vọng ở kiếp sau "  Đó là lời của nhân vật trong phim .Nếu không tự tử thì phải bán rẻ hình hài thân xác để được sống sót với nghệ thuật . Đối với nhà cầm quyền tự tử chỉ là cái " chết tự nhiên " ; và phải chết để giữ vững trật tự chính trị !
   - Về nhân vật Georg Dreyman -nhà văn , nhà thơ ,nhà đạo diễn tài hoa thuộc túp người lương thiện , tử tế . Cả hai vợ chồng đều nổi tiếng song vẫn giữ cuộc sống giản dị , đơn sơ và chan hòa yêu thương .Họ sống có lý tưởng , có lòng nhân ái và luôn biết nghĩ cho người khác . Họ trọng danh dự và có trách nhiệm .Điều nầy đã cảm hóa được tên trùm mật vụ nghe lén Wiester XX7.
  -Về nhân vật Wiester XX7 ; bộ máy cầm quyền muốn biến ông ta thành một người máy chỉ biết ăn nằm với máy móc và nhất nhất tuân lệnh . Wiester đã từng đưa biết bao văn nghệ sĩ vào nhà giam bằng nghiệp vụ nghe lén . Nhưng qua quá trình theo dõi cuộc sống và thái độ trước cuộc sống của Dreyman , Wiester dần dần tự diễn biến , tự chuyển hóa ...trở thành người tử tế ! Cấp trên của ông ta đã lường trước được việc nầy nên đã cấm ông ta gần gủi tiếp cận với Dreyman . Nhưng không ngờ người máy lạnh lùng , khắc bạc vô cảm đã dần dần được chuyển hóa thành con người đúng nghĩa NGƯỜI (viết hoa) nhờ vào tính nhân văn , lòng yêu thương và nếp sống lương thiện của Georg Dreyman .

  - Và cuối cùng là cách thi ân và cách báo đáp trọng ân đều âm thầm lặng lẽ , không tính toán so đo ... 
     Thì ra  "CHỈ CÓ SỰ HIỂU BIẾT MỚI GỢI SỰ HIỂU BIẾT VÀ CHỈ CÓ TÌNH YÊU MỚI GỢI ĐƯỢC TÌNH YÊU " !

  
                                             

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

CHU THẦN VỚI QUỐC HOA


        Chu Thần Cao Bá Quát suốt cả cuộc đời chỉ cúi đầu lạy mỗi hoa mai :
" Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa"
Một con người tài hoa ,khí phách ,ngạo nghễ như Cao bá Quát chỉ biết kính ngưỡng hoa mai ắt loài hoa nầy có đặc điểm cao quý tót vời ?
"Mười năm loay hoay tìm kiếm cổ
Cả đời cúi lạy mỗi hoa mai "
Kiếm cổ phải chăng là thanh gươm nghĩa khí nghìn thu mà nay đã mù tăm biệt tích ? Hay kiếm cổ là thanh gươm mà thần Kim Quy đã trao cho Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh ? Có nhiều huyền thoại về kiếm sắc trong giới giang hồ nghĩa hiệp . Nhưng chung quy có cùng mẫu số là kiếm quý phải ở trong tay nghĩa khí anh hùng . Cao Bá Quát cảm thấy mình chính là người có được thanh gươm nghĩa khí . Ngay từ thuở còn hàn vi , đa cùng khốn khó , Cao Bá Quát đã nuôi chí lớn :
Bài phú Dương Hùng dù nghiệm tá, thì xin quyết tống bần quỷ ra đến miền Đông Hải, để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài; Câu văn Hàn Dũ phỏng thiêng chăng, thì xin quyết tống cùng thần ra đến đất Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tú. ( Tài tử đa cùng phú )
Rồi Cao Bá Quát cùng với Lê Duy Cự vung kiếm làm cuộc khởi nghĩa lật đổ triều đình Tự Đức . Cuộc khởi nghĩa thất bại . Cao tiên sinh bị bắt bỏ cũi đưa về triều đình xử trảm . trên đường giải tù ông xin ghé miếu Lê Thái Tổ để bái điếu . Trong bài điếu có câu : " Điếu bái miếu đường chung nhật cảm, Y nhiên tích thụ phát kim hoa " (Lạy tạ miếu đường suốt ngày cảm động ; cây lá xưa vẫn như cũ nở cành hoa ngày nay ).Câu thơ tỏ ý lạc quan về sự trường tồn bất diệt của nguyên khí quốc gia :" Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết ; Đêm qua sân trước một nhành mai " ( Thiền sư Mãn Giác ) .
Sở dĩ Cao Chu Thần ngưỡng mộ hoa mai vì đặc điểm của loài hoa nầy là dẫu tàn rụng mà khí sắc vẫn không tàn phai . Những cánh hoa mai khi rụng xuống đất vẫn giữ nguyên màu vàng tươi sáng không như nhiều loài hoa khác khi tàn thì héo úa , rũ rượi ...
Mai không những đẹp về sắc , thơm về hương ; mà còn gân guốc ở gốc , vững chãi ở thân , mảnh mai thon thả ở cành . Mai còn có tính kiên định , kham nhẫn và chịu đựng trong tiết trời đông giá :
" Chẳng trải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương "( Thiền sư Hoàng Bá )
Cuộc sinh tồn và sức cống hiến của mai biểu trưng sự kế thừa liên lỷ cho dòng thời gian hôm qua , hôm nay và mai sau :
" Nhậm vận tự sinh kim nhật ý
Hàn hoa chi tác khứ mai hương "
( Ý mới rút từ kinh nghiệm cũ
Mai tàn lưu lại chút hương xưa )
Đó là lý do khiến cho một con người ngang tàng , khí khái ,tài cao , chí cả như Cao Chu Thần chỉ cúi lạy mỗi hoa mai . Hoa mai xứng đáng được tôn vinh là quốc hoa vì loài hoa nầy biểu trưng cho quốc hồn quốc túy nước Việt . Còn Cao Chu Thần là một thiên tài lỗi lạc , chí cao , mộng lớn ; mãi đến năm 40 tuổi mới thực hiện hoài bão trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương . Mộng không thành , dòng họ bị tru di ...nhưng anh linh vẫn còn đó ...Vì rằng những " đấng tài hoa ; thác là thể phách còn là tinh anh ( Nguyễn Du )

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2017

CHÀO XUÂN ĐINH DẬU TRONG TIẾNG GÀ BÁO THỨC

     


 Chào xuân Đinh Dậu chúng ta cùng  đọc lại ' BÀI CA CHÚC TẾT THANH NIÊN " của cụ Phan Bội Châu . Bài thơ mở đầu bằng tiếng gà gáy báo hiệu một ngày mới vào mùa xuân mới với nhiều vận hội mới :
 " Dậy ! Dậy ! Dậy !
Bên án một tiếng gà vừa gáy 
Chim trên cây vừa ngỏ ý chào mừng "
      Cụ Phan Bội Châu là một nhà thơ , một danh sĩ , một nhà yêu nước .Cụ đã dành cả cuộc đời đấu tranh để dành lại chủ quyền đất nước , giành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân . Mặc dù bị câu thúc trong ngục tù , cụ vẫn hằng thao thức trước vận nước điêu linh , dân tình điêu đứng ... Trong nỗi niềm ưu tư khắc khoải đó , cụ luôn kỳ vọng và ký thác niềm tin vào giới trẻ .
   Năm 1925 cụ bị thực dân Pháp bắt và đưa về an trí ở An Cựu ( Huế ) . Nhân dịp tết đến , một nhóm sinh viên học sinh đến thăm và chúc tết cụ ; cụ liền đọc bài thơ " Bài Ca Chúc Tết Thanh Niên "
" Thưa các cô , các chị lại các anh 
Đời đã mới lại càng thêm đổi mới 
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội 
Xúm vai vào xốc vác việc giang sơn 
Đi cho êm, đứng cho vững , trụ cho gan 
Dây thành bại quyết ghi phen liên hiệp lại ..."
      Việc thành bại trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc tùy thuộc vào sự liên hiệp các thành phần yêu nước trong đó thanh niên là lực lượng nòng cốt . Trong hoàn cảnh tổ quốc lâm nguy , dân tình ta thán ...mà thanh niên cứ thờ ơ ,mê ngủ ; vẫn cứ " ham chơi" ," ham mặc "," ham ăn"  thì đó là một điều sỉ nhục đối với hồn thiêng sông núi . Nước nhục thì chỉ có thể rửa nhục bằng máu . Cụ khuyên thanh niên hãy " xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ "
  Trở về với hiện tình của đất nước ta hôm nay , nguy cơ mất nước vào tay TQ là có thật .Thế mà phần đông thanh niên vẫn còn  mê ngủ , vẫn đắm mình trong các thú ăn chơi ,...Họ đã trở thành những người ngoại cuộc, những kẻ đứng bên lề . Trong truyền thống đấu tranh chống giặc phương Bắc , ông cha ta xưa luôn có ý thức cảnh giác mưu đồ xâm lược của bá quyền TQ .Nhưng ngày nay ý thức cảnh giác đó đã tan biến ...
  Năm nay chúng ta chào xuân Đinh Dậu trong tiếng gà báo thức bằng một ý thức mới , một ngày mới , một năm mới với một vận hội mới .Vì sao lại mới ? Ấy là vì có 3 ý nghĩa trong tiếng gáy của gà :
   Thứ nhất tiếng gà báo hiệu một ngày mới bắt đầu
   Thứ hai tiếng gà báo hiệu ngày đầu tiên của năm
   Thứ ba tiếng gáy báo hiệu năm con gà cùng với những đặc điểm của gà có ý nghĩa đặc biệt .
  - Có một cụm từ phổ biến nói lên niềm hy vọng bất diệt ( ngày mai trời lại sáng ) . Thường khi trong một hoàn cảnh u ám bức bối người ta có tâm lý chờ sáng . Có lẽ vì mỗi ngày một mới , đã mới càng thêm mới
  - Buổi sáng đầu tiên của năm là thời điểm đánh dấu tiết giao mùa . Chữ tiết đọc trại thành tết . Lễ tết cũng là lễ tiết   Tết Nguyên Đán là lễ tiết kỷ niệm buổi sáng đầu tiên trong năm . Giờ giao thừa , sáng mùng một là những thời khắc thiêng liêng nhất bởi con người và vạn vật mọi thứ đều tinh tươm mới mẻ . Lòng người hân hoan phơi phới , cây cối đâm chồi nẩy lộc
- Năm con gà có ý nghĩa gì về vận hội mới của đất nước ?  Con gà với những đặc điểm hiếm có : Vũ dũng , nhân nghĩa tín đủ đầy . Tả quân Lê văn Duyệt đã nâng thú vui chọi gà lên hàng Đạo Gà , Kinh Gà . Dáng vẻ của con gà - đặc biệt là gà trống thể hiện 5 đặc tính sau  :
  1/ Đầu có mồng như đội mão là Văn
 2/ Chân có cựa như mang gươm là Võ
 3/ Thấy kẻ địch thì xông tới và chiến đấu đến cùng là Dũng
 4/ Bươi chải kiếm được cái ăn thì phân chia cho đồng loại là Nhân
5/ Ngày ngày đến giờ thì gáy là Tín
Năm đức tính trên không những cần cho văn nhân võ tướng trong sứ mạng trị quốc an dân mà còn giúp cho người đời hành xử đúng đạo làm người . Gà đã đi vào nghệ thuật tranh Đông Hồ ở phía Bắc !. Ở phía Nam trò chơi chọi gà đã trở thành  một nét văn hóa dân gian . Trò chơi chọi gà có tính bình đẳng , sòng phẳng . Từ vua quan cho đến thứ dân,từ địa chủ cho đến tá điền một  khi đã gia nhập vào trò chơi thì  mọi người đều bình đẳng - cùng vui cùng ăn chia sòng phẳng . Trong truyện " Lục súc tranh công " tác giả đã lý giải ba tiếng gáy của gà như sau :
  - Một tiếng rằng thiên nhật tác thì
  - Hai tiếng rằng quốc tộ tác xương
  - Ba tiếng rằng nhân quần tác lạc

  Tiếng gáy của gà trong bài thơ chúc tết của cụ Phan Bội Châu giục giã gấp gáp như muốn đánh thức mọi người hãy còn mê ngủ . Mong rằng tiếng gà gáy báo hiệu mùa xuân Đinh Dậu là điềm lành đem lại quốc thái dân an .