Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
Hai câu cuối của bài thơ " Bạc Tần Hoài "( Tần Hoài Dạ Bạc ) đã từng gây hoang mang tranh cải cho hậu thế . " Không biết mối hận mất nước " thì đã rõ , nhưng khúc " Hậu Đình Hoa " là khúc gì mà ghê gớm lắm vậy ? Xin thưa là vì bài ca nầy có liên quan đến việc mất nước , đến người sáng tác ra nó , đến thân phận ca nhi , đào hát , đến thái độ của thi hào Đỗ Mục trong bài " Bạc Tần Hoài" và dư chấn của bài thơ .
Có thể tóm lược xuất xứ của bài thơ nầy như sau : Hậu Đình Hoa là một trong ba tập thơ do Trần Thúc Bảo thường được biết đến trong sử sách là Trần Hậu Chủ đời hậu Trần , thời Nam Bắc triều ( 420- 587) bên Tàu - tập hợp các bài thơ sáng tác trong các buổi tiệc tùng , vui chơi giải trí cùng các quan học sĩ. Khúc " Hậu Đình Hoa " được phổ nhạc từ một bài thơ hay nhất trong tập thơ củng tên . Bài thơ có nội dung ca ngợi vẻ đẹp của Trương Lệ Hoa - người được Trần Hậu Chủ đặc biệt sủng ái . Bài hát có những ca từ tình tứ , du dương nhất .Trong các cuộc dạ tiệc thâu đêm , các ca nương , đào hát rất thích hát bài nầy .
Trần Hậu Chủ (553-604 ) là một vị vua cuối cùng của họ Trần - là một ông vua nổi tiếng phong tình , ham mê thi ca , nhạc tửu , nhất là gái đẹp . Ông bị mất nước trong một cơn say khước : Say rượu , say thơ , say nhạc , say tình bên cạnh người đẹp Trương Lệ Hoa đang hát khúc Hậu đình hoa. Rồi từ đó cái tên Trần Hậu Chủ gắn liền với tên Hậu đình hoa - trở thành điển tích của vết nhơ vong quốc .
Mãi đến 200 năm sau , những ca nhi vẫn còn mê hát khúc hát nầy trong các cuộc vui chơi trác táng , yến tiệc linh đình . Dù trong hoàn cảnh nước mất nhà tan , các thương nữ vẫn bình nhiên hát khúc nhục ca nầy . Thi hào Đỗ Mục ( 803 - 852 ) một đêm đổ bến Tấn Hoài gần kề quán rượu bỗng nghe vẳng lại từ bên sông tiếng hát của một thương nữ đang hát khúc ca Hậu đình . Đỗ Mục đọng mối cảm hoài sáng tác bài thơ BẠC TẦN HOÀI ( Tần Hoài Dạ Bạc ) .
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
Dịch xuôi : Khói lan tỏa trên mặt nước lạnh , ánh trăng lan tỏa trên cát . Đêm đến đậu thuyền trên bến sông Tần Hoài gần quán rượu . Ca nhi không biết mối hận mất nước . Ở bên kia sông còn hát khúc Hậu đình hoa .
Trong thể thơ thất ngôn tứ tuyệt , thường câu thơ cuối chứa đựng nội dung biểu đạt mà tác giả muốn gởi gắm tâm tình của minh vào bài thơ . Về sau bài thơ nầy được nhiều người dịch ra thơ , mỗi người dịch đều trung thành với nguyên tác song thái độ đối với nhân vật "thương nữ " thì mỗi người mỗi khác . Có người vừa trách móc vừa thương hại , có người vừa trách móc vừa khinh miệt .
Nhóm thứ nhất gồm có những dịch giả sau đây :
- Lâm Trung Phú : Cô gái vô tình quên mất nước
Hậu đình hoa hát vọng sang sông
- Trần Trọng San : Cô gái không hay buồn mất nước
Bên sông còn hát Hậu đình hoa
- Nguyễn Hàm Ninh : Thương nữ biết chi sầu mất nước
Cách sông hát khúc Hậu Đình hoa
- Khương Hữu Dụng :Cô gái biết chi hờn mất nước
Cách sông còn hát Hậu đình hoa
Nhóm trên có người để nguyên từ " thương nữ " có người dịch là " cô gái " . Điều đó chứng tỏ có sự nhẹ tay , châm chước và cảm thông . Thật ra thương nữ có nghĩa là con hát , đào hát .
Nhóm thứ hai gồm có những dịch giả sau đây :
- Mộng Sơn : Gái đêm quen sóng khuynh thành
Bên sông hát khúc Hậu đình hoa chơi
- Hoàng Giáp Tôn : Gái còn hát Hậu đình hoa
Hờn mất nước chẳng xót xa trong lòng
- Phí Minh Tâm : Cô ả biết đâu hờn mất nước
Bên sông còn hát khúc Đình hoa
Nhóm dịch giả trên dịch Thương nữ ra Gái đêm , Gái , Cô ả , thể hiện thái độ coi khinh người ca nữ . Nhất là Mộng Sơn dùng từ Gái đêm hơi nặng tay .
Dù dịch kiểu gì hay là diễn theo cách nào thì cô gái hát khúc nhục ca vong quốc giũa hoàn cảnh nước nhà nghiêng ngã vẫn bị chê trách . Do đâu và vì sao cô gái phải chịu nỗi hàm oan nầy ? Phải chăng đây là định nghiệp của kiếp cầm ca . Vì nghệ thuật và vì kế mưu sinh - phải làm đẹp lòng khách mua vui . Chẳng qua là vì khúc hát đã biến thành vết nhơ của Trần Hậu Chủ . Trần Hậu Chủ vì ham tửu sắc , thi ca để xảy ra mất nước , bị người đời sau nguyền rủa . Trách hôn quân sao không trách nịnh thần - đám học sĩ bao quanh ông ta . Giữa lúc đất nước ngã nghiêng , dân tình điêu đứng , đám học sĩ không dùng tài học của mình để can gián vua mà lại bẻ cong ngòi bút , làm thơ xướng họa , vịnh nguyệt thưởng hoa hầu hưởng chút hương thừa rượu cặn . Thời nào cũng vậy , ngụy trí thức tuy có học hàm học vị nhưng cam chịu kiếp sống vong thân , làm con rối cho quân quyền giựt dây .
" Quốc gia hưng vong , thất phu hữu trách " câu nói của người xưa vẫn còn tươi nguyên giá trị . Sự hưng thịnh hay tiêu vong của nước nhà thì kẻ thất học cũng phải có trách nhiệm huống chi người có học . Yêu nước là trách nhiệm của mỗi công dân . Không ai được quyền thoái thác trách nhiệm nầy cho người khác và cũng không ai được độc quyền yêu nước . Yêu nước không nhất thiết là phải cầm súng . Mỗi người thể hiện quyền yêu nước theo cách của họ và tùy vào khả năng điều kiện có thể . Thái độ trút hết trách nhiệm cho cô thương nữ là không công bằng .
Bài thơ Bạc Tần Hoài cách chúng ta hơn một ngàn năm mà chừng như cái sầu mất nước vẫn còn âm ỉ : Mất biển đảo , mất những vị trí chiến lược trên đất liền , mất nguồn nước sông Mê- Kông , mất ngư trường đánh cá , mất nguồn hải sản , mất an toàn thực phẩm chẳng ngang bằng mất nước ư ?
Hai câu thơ cuối trong bài thơ của Đỗ Mục như một lời chê trách , lời cảnh báo những ai quay lưng lại với mệnh nước ; những ai bằng lòng với những lợi quyền nhỏ mhoi , bình an giả tạm để đắm mình trong những trò vui chơi giải trí . Bộ máy công quyền nắm vai trò định hướng thông tin đại chúng , bám sát các hoạt động giải trí tuyên truyền . Do vậy người dân chỉ có thể nói một chiều , nghĩ một hướng , làm một kiểu ,...Thậm chí một MC chỉ chia sẻ lại hình ảnh cá chết từ một kênh truyền hình cũng bị đem ra đấu tố , hạch hỏi ...
Những ai còn có lương tri , lương thức , còn băn khoăn đến vận nước , đến dân tộc , tổ quốc đều bị nhóm lợi quyền quy kết là có ý đồ lật đổ chính quyền .Biết hận mất nước là một chuyện , nhưng làm thế nào để cứu nguy dân tộc lại là điều không dễ !
Thưa Thầy, người đứng đầu nhiệm sở của tôi vào năm 1975 có tên Phí Minh Tâm, ông dịch nhiều thơ Đường, không xuất bản thành tuyển tập nhưng các web đăng hà rầm; rồi được chuyển dây chuyền bằng email. Bài nầy của thầy nêu một dịch giả tên gần giống là Phó Minh Tâm. Tôi có gởi link và copy paste bài nầy cho chef cũ. Ông Tâm không làm gì ngoài việc gởi cho tôi bản dịch giống như ông đã cho nhiểu người xem.
Trả lờiXóaThuyền Đậu Sông Tần Hoài
Khói mờ trên nước cát trăng hòa
Ðậu bến sông Hoài cạnh tửu gia
Cô ả biết đâu hờn mất nước
Bên sông còn hát khúc Ðình Hoa
Phần tôi, tôi thấy hai câu thầy trích dẫn giống như trên, ngoại trừ chữ "bên"(sông)# "trên". Kính chuyển để thầy tùy nghi.
Lâu lắm không ghé thăm thầy. Nến mới của blog màu vàng dịu mắt, tôi không nói ánh đạo vàng, sợ cho là thiên vị tôn giáo. Máy ảnh tân tiến đã chụp được hào quang vàng của con người trong ý thiện và màu đỏ khi muốn đâm chém. Vô Danh Thị, người ở xa.
Xin thầy vui lòng sửa giúp hai lỗi typo: nhiều người xem; nền mới của blog; cả hai chữ đều có dấu huyền. Xin xóa câu trả lời nầy
XóaBạn "Nặc danh" thân mến ! Thành thật cảm ơn bạn về cái góp ý vừa rồi.Sự nhầm lẫn đáng tiếc nầy thiệt là một sự vô ý ngoài ý muốn của tôi .Nhờ bạn chuyển lời xin lỗi của tôi đến dịch giả Phí Minh Tâm - và lời cảm ơn ông .
XóaKhi dịch “thương nữ” là “cô ả” như “ả đào” thì đúng là lúc đó người dịch chưa thắm nhuần đạo đức tôn trọng bình đẳng mọi nghề nghiệp, mọi chúng sinh, thiếu tôn trọng người không có lòng yêu nước.
Trả lờiXóaTuấn Anh TRẦN TRỌNG HẢI
Trả lờiXóaĐỗ Mục và bài thơ BẠC TẦN HOÀI
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
Hai câu cuối của bài thơ “Bạc Tần Hoài” (Tần Hoài Dạ Bạc) đã từng gây hoang mang tranh cải cho hậu thế. “Không biết mối hận mất nước” thì đã rõ, nhưng ca khúc “Hậu Đình Hoa” là ca khúc gì mà ghê gớm vậy? Đó là vì ca khúc này có liên quan đến việc mất nước, đến người sáng tác ra nó, đến thân phận ca nhi, đào hát, đến thái độ của thi hào Đỗ Mục trong bài “Bạc Tần Hoài” và dư chấn của bài thơ Tần Hoài Dạ Bạc
Nguyên tác:
泊秦淮
煙籠寒水月籠沙,
夜泊秦淮近酒家。
商女不知亡國恨,
隔江猶唱後庭花。
Bạc Tần Hoài
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
Dịch nghĩa
Bến Tần Hoài
Khói lồng sông lạnh, ánh trăng lồng bãi cát
Đêm đậu thuyền ở bến Tần Hoài, gần quán rượu
Con hát không biết hờn mất nước
Bên kia sông còn hát khúc Hậu đình hoa.
*
Bản dịch của Khương Hữu Dụng
Nước lồng khói tỏa, cát trăng pha,
Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia.
Con hát biết chi hờn mất nước,
Cách sông còn hát Hậu đình hoa.
Bản dịch của Trần Trọng San
Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát,
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát “Hậu đình hoa”.
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát,
Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia.
Gái ca đâu nghĩ nước nhà,
Cách sông vẫn hát khúc hoa Hậu đình.
***
Nhận xét riêng của Tuấn Anh TRẦN TRỌNG HẢI:
Nguyên tác chữ Hán 近 - phát âm là “cận” - có nghiã là “gần”, không thể hiểu là “cạnh” hay “sát” {sát bên cạnh - Nguyễn Bính đã từng viết: “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”.
Chữ “cận” trong bài thơ Bạc Tần Hoài không thể dịch là “cạnh” hay “sát” - tuyệt đối không – vì câu chót “Cách giang do xướng Hậu đình hoa” (Cách sông còn hát Hậu đình hoa) Thi hào Đỗ Mục lúc làm bài thơ Bạc Tần Hoài đang ngồi trên thuyền đậu ở bên kia sông Tần Hoài chứ không phải thuyền đậu ở bên cạnh tửu gia (quán rượu).
Chính vì vậy, tôi và người bạn tâm giao Trần Đỗ Cẩm (1) xin mạn phép tạm dịch:
Nước lồng khói tỏa, cát trăng pha,
Đậu bến Tần Hoài cách tửu gia.
Ca nữ biết chi hờn mất nước,
Bên sông còn hát Hậu đình hoa.
(1) Trần Đỗ Cẩm - Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Nguyệt San ĐOÀN KẾT AUSTIN TEXAS USA